Hổ Trợ Trực Tuyến
Hotline
  • Phone 02923.69 68 68
  • Hotline 0939 659 222
  • Email atc.aqua@gmail.com
Bệnh và Điều trị
SỰ KHÁNG THUỐC CỦA VI KHUẨN Vibrio parahaemolyticus
Cập nhật ngày 07/09/2016
ABSTRACT 
Acute  hepatopancreatic  necrosis  disease  (AHPND)  are  considered  as  a dangerous disease on shrimp. In Vietnam, the disease appeared in 2011 and caused significant damage to shrimp farming in the Mekong Delta. Pathogen Vibrio  parahaemolyticus  bacteria  infected  by  phage.  In  this  study  have  38 bacterial  strains,  which  were  isolated  from  water  samples,  hepatopancreatic and gut  of shrimps displayed sign of AHPND in the province Ca Mau, Soc Trang,  Bac  Lieu  and  Tra  Vinh.  The  purpose  of  this  study  is  to  assess  the antimicrobial  susceptibility  of  Vibrio  parahaemolyticus.  All  isolates  were screened  against  13  antibiotics    of  12  strains  of  bacteria  by  disk  diffusion method. The results showed that  Vibrio parahaemolyticus isolates were  still resistant  to: amoxicillin, cephalexin, and all stre sensitive streptomycine, but still  susceptible  to:  norfloxacin,  rifampicin,  doxycycline,  flumequine.  In particular, all 12 isolated in this study displayed multi-drug resistance on 13 antibiotics. 
Title:  Tudies  of  bacterial  resistance  Vibrio parahaemolyticus  isolated  from shrimp ponds. 
Keyword: Vibrio parahaemolyticus, shrimp, antimircobial susceptibility. 
 
TÓM TẮT 
Bệnh hoại tử gan tụy cấp tính (AHPND) được coi là một căn bệnh nguy hiểm trên tôm. Ở Việt Nam, bệnh đã xuất hiện trong năm 2011 và gây ra thiệt hại đáng kể cho nghề nuôi tôm ở Đồng bằng sông Cửu Long. Tác nhân gây bệnh là vi  khuẩn Vibrio  parahaemolyticus bị  nhiễm  bởi thể  thực khuẩn. Trong nghiên cứu này có 38 chủng vi khuẩn được phân lập từ mẫu nước, gan tụy và ruột tôm có dấu hiệu bệnh AHPND ở các tỉnh Cà Mau, Sóc Trăng, Bạc Liêu và Trà Vinh.  Mục  đích  của  nghiên cứu  này  là  đánh giá  sự nhạy cảm thuốc kháng sinh của vi khuẩn Vibrio parahaemolyticus. Nghiên cứu kiểm tra kháng sinh đồ với 13 loại kháng sinh trên 12 chủng vi khuẩn bằng phương pháp đĩa khuếch tán. Kết quả kháng sinh đồ cho thấy đa số các chủng vi khuẩn Vibrio parahaemolyticus kháng cao các kháng sinh như: amoxicillin, cephalexin và kháng hoàn toàn với streptomycin. Tuy nhiên vẫn còn nhạy với: norfloxacin, rifampicin,  doxycycline, flumequine.  Đặc  biệt,  tất  cả  12  chủng  vi  khuẩn nghiên cứu đều thể hiện sự đa kháng thuốc trên 13 loại kháng sinh. 
1. GIỚI THIỆU 
Nuôi trồng thủy sản (NTTS) là ngành có những đóng góp đáng kể trong nền kinh tế của nhiều quốc gia trên thế giới. Trong đó, nuôi tôm biển là một trong những nghề quan trọng nhất. Do có giá trị thương mại cao trên thị trường xuất khẩu, nên nghề này không chỉ góp phần nâng cao thu nhập, cải thiện kinh tế cho người dân mà nó còn góp phần giải quyết việc làm cho người lao động. Tuy nhiên, từ đầu năm 2011, sự xuất hiện của hội chứng hoại tử gan tụy cấp tính (Acute  hepatopancreatic necrosis disease-AHPND) đã gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến nghề nuôi tôm trong toàn vùng với thiệt hại hơn 98.000 ha và hơn 46.000 ha diện tích nuôi tôm trong năm 2012 tập trung ở một số tỉnh Sóc Trăng, Trà Vinh, Cà Mau, Bạc Liêu và Kiên Giang. Theo Lightner (2013) tác nhân gây bệnh hoại tử gan tụy cấp tính là vi khuẩn Vibrio parahaemolyticus bị nhiễm bởi thể thực khuẩn, làm tôm nhiễm bệnh ở giai đoạn 15-40 ngày sau khi thả. Ở nước ta, khi dịch bệnh xảy ra, người dân thường sử dụng thuốc kháng sinh để điều trị bệnh cho tôm nuôi. Việc sử dụng thuốc kháng sinh không đúng loại, liều lượng sẽ dẫn đến việc tạo ra các dòng vi khuẩn kháng thuốc. Sự kháng thuốc có thể là do sự phát sinh ra cơ chế miễn dịch  trong  hệ  di  truyền  của  vi  khuẩn.  Do  đó,  sự  kháng  thuốc  có  thể  được chuyển từ loài vi khuẩn này sang loài vi khuẩn khác (Từ Thanh Dung, 2005). Hiện nay, sự kháng thuốc của vi khuẩn gây bệnh đang là mối đe dọa rất lớn cho nghề nuôi tôm và cũng là mối quan tâm lớn của cộng đồng, vì vi khuẩn một khi đã kháng thuốc không chỉ gây khó khăn cho công tác phòng trị bệnh mà còn nghiêm trọng hơn, chúng có thể truyền các gen kháng thuốc này sang các loài vi khuẩn khác và cho cả con người. Vì vậy, đề tài “Nghiên cứu sự kháng thuốc  của vi khuẩn Vibrio parahaemolyticus phân lập từ ao nuôi tôm” được thực hiện. Mục tiêu của đề tài là tìm ra loại kháng sinh đặc hiệu để điều trị bệnh do vi khuẩn V. parahaemolyticus gây ra trong ao nuôi tôm. Đồng thời, cung cấp thông tin cho các nhà quản lý thủy sản kiểm soát chặt chẽ việc lưu hành thuốc kháng sinh trên thị trường. 
2. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
2.1. Nguồn tôm 
 Nguồn tôm có dấu hiệu bệnh AHPND được thu tại 18 ao nuôi tôm sú và tôm thẻ ở các tỉnh Cà Mau, Sóc Trăng, Bạc Liêu và Trà Vinh, mỗi ao thu 5 mẫu tôm với các dấu hiệu bệnh lý như tôm bỏ ăn, bơi chậm chạp và tắp mé, gan tụy nhạt màu, teo, dai và ruột rỗng (Bảng 1). 
Bảng 1: Số mẫu tôm thu được ở các tỉnh 
STT
Tỉnh
Số ao
Số mẫu tôm
1
Cà Mau
10
50
2
Sóc Trăng
1
5
3
Bạc Liêu
1
5
4
Trà Vinh
6
30
Tổng
18
90
 
2.2. Nguồn vi khuẩn 
Các  chủng  vi  khuẩn  được  phân  lập  trên  tôm  sú,  tôm  thẻ  và  mẫu  nước  tại những ao nuôi tôm có dấu hiệu bệnh AHPND ở các tỉnh Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau. Thời gian từ tháng 8 đến tháng 12 năm 2014 (Bảng 2). 
Bảng 2: Số chủng vi khuẩn Vibrio parahaemolyticus phân lập ở các tỉnh 
2.3. Phân lập và định danh vi khuẩn 
Vi khuẩn V. parahaemolyticus được phân lập trên tôm (gan tụy, ruột) và nước ở các tỉnh Cà Mau, Sóc Trăng, Bạc Liêu và Trà Vinh cấy trên trên môi trường CHROMagar™ Vibrio chọn ra các chủng vi khuẩn bắt màu tím tách ròng lại Tryptic soy agar (TSA) có bổ sung 1,5% NaCl (Merck, Darmstadt, Germany) ủ  ở  nhiệt  độ  280C  trong  24  giờ.  Vi  khuẩn  được  phân  lập  dựa  theo  tài  liệu hướng  dẫn  của  Frerichs  và  Millar  (1993).  Vi  khuẩn  được  kiểm  tra  các đặc điểm sinh lý, sinh hóa (tính di dộng, nhuộm Gram, oxidase, catalase, O-F test) theo cẩm nang Cowan và Steel’s (Barrow and Feltham, 1993),  trước khi định danh bằng bộ kit API 20E (bioMerieux, France), (Buller, 2004). 
2.4. Kiểm tra kháng sinh đồ 
Bảng 3: Số chủng vi khuẩn V. parahaemolyticus chọn làm kháng sinh đồ 
Kiểm  tra  kháng  sinh  đồ  được  thực  hiện  theo  tiêu  chuẩn  của  Clinical  and Laboratory Standards Institute (CLSI) (2011), trên môi trường Mueller-Hinton Agar  (MHA,  Meck,  Darmstadt,  Germany)  bổ  sung  1,5%  NaCl  với  13  loại kháng  sinh  là  doxycycline  (30µg),  florfenicol  (30µg),  gentamicin  (10µg), trimethoprim+sulfamethoxazole  (25µg),  norfloxacin (10µg),  streptomycin (10µg), enrofloxacin (5 µg), cephalexin (30µg), amoxicillin (25µg), neomycin (30µg),  flumequine  (30µg),  cephazoline  (30µg),  rifampicin  (30µg),  (Oxoid, 
UK). Chỉ số đa kháng MAR (Multi-antibiotic resistant index): Chỉ số đa kháng kháng sinh của vi khuẩn được tính toán dựa trên công thức của Sarter et al. (2007). 
MAR = X / (Y x Z) 
X = tổng số trường hợp kháng kháng sinh ở mỗi tỉnh 
Y = tổng số kháng sinh sử dụng trong nghiên cứu 
Z = tổng số chủng vi khuẩn phân lập được ở mỗi tỉnh 
3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 
3.1. Dấu hiệu bệnh lý 
Tôm bệnh hoạt động chậm chạp, bỏ ăn, lờ đờ và tắp mé. Khi tách bỏ lớp giáp đầu ngực, quan sát thấy gan tụy teo, dai, nhạt màu và ruột rỗng (Hình 1). 
Hình 1: Tôm thẻ chân trắng (Litopenaeus vannamei) có dấu hiệu nhiễm 
bệnh hoại tử gan tụy (A, B). Gan tụy teo, dai, màu nhợt nhạt,  ruột 
không có thức ăn.
 
Các dấu hiệu ghi nhận được tương tự trong mô tả của Lightner et al. (2012) và Flegel et al., (2012) về các dấu hiệu bệnh lý của tôm khi mắc phải hội chứng hoại tử gan tụy cấp tính. Lightner (2012) cho biết tôm hoại tử gan tụy ở mức độ ao nuôi thường có một số các dấu hiệu như tôm chết đáy, bỏ ăn, gan tụy teo, dai, nhạt màu, ruột rỗng và có hiện tượng mềm vỏ. Tôm nuôi có thể chết đột ngột với tỉ lệ cao trong thời gian ngắn sau khi xuất hiện các dấu hiệu bệnh đặc biệt khoảng sau từ 2 -3 ngày (Lê Hồng Phước và ctv, 2012). 
3.2. Kết quả phân lập vi khuẩn 
 Trên môi trường Thiosunfate Citrate Bile Salt Sucrose (TCBS) khuẩn lạc có màu  xanh,những  khuẩn  lạc  này  khi  được  cấy  truyền  sang  đĩa  môi  trường Tryptic soy agar (TSA) (có bổ sung 1.5% NaCl) thì khuẩn lạc phát triển có màu kem hoặc màu trắng đục với hình dạng và kích thước khuẩn lạc tương tự như trên môi trường CHROMagar™ Vibrio (Hình 2). Đặc điểm chung của các chủng phân lập được đều là vi khuẩn  Gram âm, hình que có khả năng di động, phản ứng dương tính với oxidase, catalase, có khả năng lên men đường trong điều kiện kị khí và hiếu khí. Dựa vào đặc điểm hình thái, sinh lý, sinh hóa và kết quả kiểm tra bằng kít API 20E các chủng vi khuẩn này được định danh là vi khuẩn Vibrio parahaemolyticus.
Hình 2: Kết quả phân lập vi khuẩn và kiểm tra sinh hóa. 
A: Đĩa vi khuẩn Vibrio parahaemolyticus phân lập trên CHROMagar™ Vibrio 
B: Đĩa vi khuẩn Vibrio parahaemolyticus thuần trên TSA+
C: Vi khuẩn Gram âm, que ngắn (100X) 
D: Vi khuẩn phát triển trên TCBS 
 
Bảng 4: Đặc điểm sinh lý, sinh hóacủa các chủng V.parahaemolyticus. 
 

Chỉ tiêu

Chủng vi khuẩn

ATCC 43996
(Buller, 2004)

ST45.2RTR

TV6TD

Nhuộm Gram

-

-

-

Hình dạng  

Que ngắn

Que ngắn

Que ngắn

Phát triển trên TCBS

Xanh

Xanh

Xanh

Di động

+

+

+

Sinh catalase

+

+

+

Sinh oxidase

+

+

+

Phản ứng lên men yếm khí  

+

+

+

Phản ứng lên men hiếu khí  

+

+

+

Sinh beta – galactosidaza

-

-

-

Agrinine

-

-

-

Lysine

+

+

+

Ornithine

+

+

+

Sử dụng Citrate  

+

+

 

Sinh H2S

-

-

-

Sinh ureaza

-

-

+

Sinh tryptophane

-

-

-

Sinh indole

+

+

+

Acetoin production

+

+

+

Sinh Gelatinaza 

+

+

+

Sử dụng đường Glucose  

+

+

+

 Manitol

+

+

+

 Inositol

-

-

-

 Sorbotol

-

-

-

Rhamnose

-

-

-

 Sucrose

-

-

-

 Melibiose

-

-

-

 Amygdalin

-

-

+

 Arabinose

+

+

-

 
Ghi chú: (+) dương tính, (-) âm tính 
Kết quả định danh bằng bộ kít API 20E cho thấy đặc điểm sinh lý, sinh hóa của  2 chủng V. parahaemolyticus  trong nghiên cứu giống  với chủng  vi khuẩn V. parahaemolyticus của Buller (2004), trừ chỉ tiêu sử dụng citrate và acetoin production kết quả  kiểm tra là dương tính so với kết quả của Buller (2004) là âm tính. 
3.3. Kết quả kháng sinh đồ 
Bảng 5: Tỷ lệ % kháng và nhạy của các chủng vi khuẩn V. parahaemolyticus 
 

Thuốc kháng sinh

Kháng (%)

Nhạy trung bình (%)

Nhạy (%)

β-lactamin

Amoxicillin (25µg)

91,7

0

8,3

Cephalexin (30µg)

83,3

8,3

8,3

Cephazolin (30µg)

50

41.7

8,3

Aminoglycosides

Gentamycin (10µg)

41,7

33,3

25

Neomycin (30µg)

58,3

41,7

0

Streptomycin (10µg)

100

0

0

Fenicol

Florfenicol (30µg)

0

0

100

Quinolon

Enrofloxacin (5 µg)

8,3

8,3

83,3

Norfloxacin (5µg)

0

8,3

91,7

Flumequine (30µg)

8,3

0

91,7

Tetracyclin

Doxycycline (30µg)

8,3

8,3

83,3

Rifampicine (30µg)

0

0

100

Trimethoprim+sulfamethoxazole

(25µg)

25

0

 
Kết  quả  kháng  sinh  đồ  cho  thấy  đa  số  các  chủng  vi  khuẩn  Vibrio parahaemolyticus  kháng  với  các  kháng  sinh  thuộc  nhóm  β-lactamin    kháng hoàn  toàn  với  streptomycin,  kháng  tương  đối  cao  với  amoxicillin  (91,7%), cephalexin (83,3%).  Nhạy hoàn  toàn với florfenicol, rifampicin, nhạy tương đối cao với norfloxacin (91,7%), flumequine (91,7%), enrofloxacin (83,3%), doxycycline (83,3%). 
3.4. Hiện tượng đa kháng thuốc của vi khuẩn  
Hình 3: Tỷ lệ % các chủng vi khuẩn V. parahaemolyticus đa kháng thuốc kháng sinh 
 
Điểm nổi bật ở nghiên cứu này là 12 chủng vi khuẩn đều đa kháng thuốc. Vi khuẩn V. parahaemolyticus đa ít nhất 3 loại kháng sinh và nhiều nhất là 8 loại kháng sinh. Trong đó đa kháng với 3, 4 và 6 loại kháng sinh chiếm tỷ lệ cao nhất và cùng bằng (25%). Chỉ số đa kháng (MAR): Chỉ số đa kháng của 4 tỉnh Cà Mau, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Trà Vinh được trình bày ở (Bảng 6). Chỉ số MAR của 4 tỉnh đều cao hơn 0,2, cho thấy 14 kháng sinh trong nghiên cứu này đã được sử dụng thường xuyên để điều trị bệnh cho tôm nuôi ở 4 tỉnh trên. 
Bảng 6: Chỉ số đa kháng của vi khuẩn V. parahaemolyticus 
 

Tỉnh

Cà Mau

Sóc Trăng

Bạc Liêu

Trà Vinh

MAR

0,4

0,3

0,5

0,3

 
3.5. Thảo luận 
Kết quả nghiên cứu cho thấy đa số các vi khuẩn V. parahaemolyticus kháng rất  cao  với  các  kháng  sinh  thuộc  nhóm  nhóm  β-lactam  như  amoxicillin (91,7%), cephalexin (83,3%). Theo Lê Đăng Hà (2011), nhóm kháng sinh này sử dụng qua đường thức ăn, trị vi khuẩn đường ruột và hiệu quả được loại bỏ nhanh chóng, không dùng thuốc này đối với bệnh phẩy khuẩn. Streptomycin,  gentamycin  và  neomycin  là  3  kháng  sinh  thuộc  nhóm aminoglycosides. Trong nghiên cứu này V. parahaemolyticus kháng hoàn toàn với streptomycine, kháng tương đối với neomycine (58,3%) và gentamycine (41,7%).  Các  kháng  sinh  thuộc  nhóm  aminoglycosides  không  hấp  thụ  qua đường ruột nên chỉ có thể sử dụng qua đường tiêm trong y học và thú y, vì vậy chúng rất ít được sử dụng trong nuôi trồng thủy sản (Bùi Kim Tùng, 2001). Trong khi đó, các dòng vi khuẩn trong nghiên cứu này  nhạy hoàn toàn với florfenicol.  Theo  nghiên  cứu  của  Quang  Trong  Phat,  (2013)  thì  V. parahaemolyticus nhạy cao với florfenicol (91,7%). Florfenicol là kháng sinh được ứng dụng rộng rãi trong ngành thú y và trong NTTS ở châu Á từ những thập niên 1980 (Keyes et al., 2000). Tuy nhiên, chỉ sử dụng kháng sinh này điều trị cho động vật thủy sản khi thật sự cần thiết và tuân thủ các nguyên tắc sử dụng kháng sinh. Tuy  các chủng vi  khuẩn trong  nghiên cứu còn  nhạy  với  nhóm quinolone nhưng thế hệ I của nhóm kháng sinh này như: flumequine có hoạt tính với vi khuẩn  Gram  âm.  Tuy  nhiên  các  kháng  sinh  thế  hệ  II  như:  enrofloxacin  và norfloxacin  hoạt tính dựa vào sự trao đổi chất của ADN làm thay đổi cấu trúc tế bào vi khuẩn có thể dẫn đến các thể đột biến  kháng  thuốc  (Lê  Đăng Hà, 2011). Mặt khác, enrofloxacin là kháng sinh nằm trong danh mục cấm sử dụng trong  nuôi  trồng  thủy  sản  của  Bộ  Nông  Nghiệp  và  Phát  Triển  Nông  Thôn (Thông  tư  03/2012/TT  BNNPTNT)  do  thuốc  có  khả  năng  tồn  lưu  một  thời gian dài trên động vật thủy sản. Vì  vậy, trong trường hợp khẩn cấp có thể sử dụng kháng sinh flumequine  để điều trị không nên sử dụng enrofloxacin và  norfloxacin để tránh sự kháng thuốc xảy ra. Doxycycline là kháng sinh thuộc thế hệ mới nhất  của nhóm tetracycline. Nhóm tetracycline được sử dụng trong nuôi thủy sản bằng cách trộn vào thức ăn hoặc tắm  (Từ Thanh Dung,  2008). Trong nghiên  cứu này các  chủng V.parahaemolyticus nhạy rất cao với doxycycline (91,7%) tương tự với nghiên cứu  của  Diep  The  Tai  et  al.  (2010),  vi  khuẩn  thể  hiện  tính  nhạy  với doxycycline  đến  93,08%  và  của Quang  Trong  Phat (2013)  có  91,7%  chủng V.parahaemolyticus nhạy với doxycycline. Các  chủng  vi  khuẩn  qua  khảo  sát  nhạy  hoàn  toàn  với  rifampicin,  với trimethoprim+sulfamethoxazole  nhạy  75%  và  đã  có  25%  kháng.    Theo Nguyễn  Phước Tương và  Trần Diễm  Uyên  (2000), trimethoprim là  nhóm kháng khuẩn tổng hợp tương tự như kháng sinh. Nhóm  kháng sinh này có tác dụng  kìm  khuẩn,  ức  chế  enzyme  dihydroflolate-reductase  của  vi  khuẩn, thường phối hợp với sulfamethoxazole. Sự kết hợp này có tác dụng hiệp đồng, làm giảm sự xuất hiện kháng thuốc và ức chế hai giai đoạn kế tiếp nhau trong quá  trình  tổng  hợp  acid  folic  của  vi  khuẩn  (Lê  Đăng  Hà,  2011). Kết  quả nghiên cứu  của Panawala et  al. (2005), cho  thấy  V. parahaemolyticus ở  Sri Lanka trên nước và trên tôm nhạy 100% với trimethorime+sulfamethoxazol. 
Nghiên  cứu  của  Quang  Trong  Phat  (2013)  có  75%  chủng  nhạy  với trimethoprim+sulfamethoxazole. Qua các nghiên cứu cho thấy vi khuẩn kháng với  nhóm  kháng  sinh  này ngày  một  tăng  nhưng  việc  tìm  ra  loại  thuốc  mới không kịp để khống chế vi khuẩn vì vậy vi khuẩn sẽ kháng lại kháng sinh này dẫn đến điều trị không hiệu quả. Trong nghiên cứu này, 12 chủng vi khuẩn đều đa kháng. Hiện tượng đa kháng thuốc trên vi khuẩn phân lập từ các hệ thống nuôi thủy sản ở ĐBSCL cũng được Đặng Thị Hoàng Oanh và ctv. (2005) đề cập với khoảng 59% dòng vi khuẩn (196 dòng) nghiên cứu kháng với 4 hay 5 loại kháng sinh thử nghiệm. Ngoài ra, theo Miranda and Zemelman (2002) có 74 chủng vi khuẩn phân lập trên cá hồi nước ngọt tại các trang trại nuôi thủy sản ở Chile có hiện tượng kháng đồng thời với 6 – 10 loại thuốc kháng sinh. Bên cạnh sự đa kháng thuốc thì các vi khuẩn V. parahaemolyticus chỉ số đa kháng (MAR) của 4 tỉnh khảo sát đều lớn hơn 0,2 điều này cho thấy người nuôi đã sử dụng rất thường xuyên các loại kháng sinh này để điều trị cho tôm nuôi.Theo Lê Đăng Hà (2011), cho rằng việc sử dụng kháng sinh quá rộng rãi làm xuất hiện vi khuẩn kháng thuốc kháng sinh. Sự xuất hiện vi khuẩn kháng thuốc nhanh hơn là tìm ra những thuốc mới có hiệu lực với các vi khuẩn đó. Hậu quả của vi khuẩn kháng thuốc sẽ làm cho điều trị các bệnh không hiệu quả, nguy cơ tử vong nhiều hơn, tốn phí trong điều trị, đồng thời có thể xuất hiện những ổ dịch do vi khuẩn kháng thuốc. 
Trong nuôi trồng thủy sản sự hiểu biết của người nuôi về thuốc kháng sinh còn hạn chế về nhiều mặt. Vì vậy, việc sử dụng kháng sinh không đúng cách dẫn đến điều trị không có hiệu quả là điều không thể tránh khỏi. Thuốc kháng sinh sử dụng hiệu quả trong trường hợp trị bệnh nhiễm khuẩn giúp động vật thủy sản hồi phục lại chức năng sinh lý bình thường và nâng cao tỷ lệ sống nếu sử dụng đúng liều và đúng lúc. Sử dụng bừa bãi sẽ gây khó khăn cho việc điều trị về sau, dễ bị bội nhiễm, đôi khi dẫn đến tử vong. Trị liệu bằng kháng sinh được coi như sự trợ giúp nhất thời khi khả năng chống bệnh suy giảm, vì thế ta nên tăng cường các biện pháp phòng bệnh hơn là phải trị bệnh ( Bùi Kim Tùng và ctv., 2001). 
4. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT 
Kết luận 
Kết quả phân lập được 38 chủng vi khuẩn Vibrio parahaemolyticus trong ao nuôi tôm sú và tôm thẻ. Kết quả kiểm tra kháng sinh đồ trên 12 chủng vi khuẩn kháng hoàn toàn với streptomycine,  kháng  cao  với  amoxicillin,  cephalexin,  kháng  tương  đối  cao với  cephazolin, gentamycin, neomycin. Nhạy  hoàn toàn với  florfenicol và rifampicin. Nhạy cao với các kháng sinh như  norfloxacin, flumequine và nhạy tương  đối  cao  với  trimethoprim+sulfamethoxazole,  enrofloxacin  , doxycycline.  Trong  trường  hợp  cấp  thiết  có  thể  sử  dụng  flumequine, doxycycline, florfenicol để trị bệnh do V. parahaemolyticus gây ra. Chỉ số đa kháng (MAR) trên 4 tỉnh Cà Mau, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Trà Vinh đều lớn hơn 0,2. Trong 12 chủng vi khuẩn khảo sát đều thể hiện tính đa kháng ít nhất là 3 loại kháng sinh, nhiều nhất là 8 loại kháng sinh. Đa kháng với  3, 4 và 6 loại kháng sinh chiếm tỷ lệ cao nhất. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
Barrow, I.G and R.K.A. Feltham (Editor), 1993. Cowan and Steel’s manual for the identification of medical bacteria, 3thedn. Cambridge University Press. 351pp. 
Bộ Nông Nghiệp và phát triển Nông thôn, 2012. Thông tư số 03/2012/TTBNNPTNT ban hành ngày 16/01/2012 về việc sửa đổi, bổ sung Thông tư số 15/2009/TT – BNN ngày 17/3/2009 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn ban hành Danh mục thuốc, hóa chất, kháng sinh cấm sử dụng, hạn chế sử dụng trong sản xuất, kinh doanh thủy sản. Ngày cập nhật: 21/11/2014. 
Bùi Kim Tùng, Bùi Kim Hoàng và Bùi Kim Tân, 1997. Thuốc kháng sinh. Sở khoa học công nghệ và môi trường tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu, 287 trang. 
Bùi Kim Tùng, Bùi Kim Hoàng và Bùi  Kim Tân, 2001. Thuốc kháng sinh. Sở Khoa học Công nghệ và Môi trường tinhr Bà Rịa-Vũng Tàu. 255 trang. 
Buller, B.N, 2004. Bacteria from fish and Other Aquatic Animals- A Practical Identification Manual. CABI Publishing. 390pp. 
Clinical  and  Laboratory  Standard  Institute  (CLSI),  2011.  Methods  for  broth  dilution susceptibility  testing  of  bacteria  isolated  from  aquatic  animals;  informational supplement, M49- A, Clinical and Laboratory Standards Istitute, Wayne, NJ. 
Đặng Thị Hoàng Oanh, Nguyễn Thanh Phương, Temdoung   Somsiri,  Supranee  Chinabut, Fatinah Yussoff, Mohamed Shariff, Kerry Bartie, Geert Huys, Mauro Giacomini, Stefania Berton, Jean Swings and Alan Teale, 2005. Xác định tính kháng thuốc kháng sinh của vi khuẩn phân lập từ các hộ nuôi thủy sản ở Đồng bằng Sông Cửu Long, Việt Nam. Tạp chí Nghiên Cứu Khoa Học - Đại học cần Thơ. 4: 2005, 136-144. 
Diep The Tai, Au Vinh Thuy, Nguyen Thi Ngoc Nhi, Nguyen Thi Kim Ngoc and Nguyen Thi Phuong Lan, 2010. Virulence and antimicrobial resistance characteristics of Vibrio parahaemolyticus isolated from environment, food and clinical samples in the south of Vietnam. Institut Pasteur International Network Annual Scientific Meeting .Volume 5 Supplement 1. 
Flegel, W. T., 2012. Historic emergence, impact and current status of shrimp pathogens in Asia. Journal of Invertebrate Pathology 110: 166-173. 
Frerichs, G Nicolas  and Millar,  Stuart D. (1993). Manual  for the isolation and identification of fish bacterial pathogens. 
Keyes, K., C. Hudson and J.J. Maurer, 2000.  Detection of florfenicol resistance  genes in Escherichia  coli  isolated  from  sick  chickens.  Antimicrobial  Agents  and Chemotherapy, 44: 421-424. 
Lê  Đăng Hà, 2011.  Bệnh truyền mhiễm và nhiệt  đới. Nhà xuất bản Khoa học Kỹ Thuật. trang 6- 102. 
Lê Hồng Phước, Lê Hữu Tài và Nguyễn Văn Hảo, 2012. Diễn biến của hội chứng hoại tử gan tụy trong ao nuôi tôm thâm canh ở huyện Trần Đề, Tỉnh Sóc Trăng. 
Lê Thị Kim Liên, Nguyễn Quốc Thịnh, Nguyễn Thị Như Ngọc, Phạm Thanh Liêm, 2008. Bài giảng thuốc và hóa chất trong nuôi trồng thủy sản. Khoa thủy sản. Đại học cần Thơ. Trang 76. (79 trang). 
Lightner, D. V. (2013). Confimation of the infectious nature of the agent of early mortality syndrome  (EMS)  affectingfarmed  penaeid  shrimp  in  mexico.  Asian  -  pacific aquaculture, 36: 5 – 10. 
Lightner, D.V., Redman, R. M., Pantoja, C. R., Noble, B. L., Loc, T. (2012). Early mortality syndrome  affects  shrimp  in  Asia.  Global  aquaculture  advocate  January/February 2012:40. 
Mai Văn Tài, 2004. Điều tra đánh giá hiện trạng các loại thuốc, hóa chất và chế phẩm sinh học dùng trong nuôi trồng thủy sản nhằm đề xuất các giải pháp quản lý. Viện Nghiên Cứu Nuôi Trồng Thủy Sản I. 20 trang. 
Miranda,  C.D  and  R.  Zemelman,  2002.  Antimicrobial  multiresistance  in  bacteria  isolated from freshwater Chilean salmon farms. The Science of the Total Environment. 293: 207-218. 
Nguyễn Khang, 2005. Kháng sinh học ứng dụng. Nhà xuất bản y học, Hà Nội. trang 1-116. 
Nguyễn Phước Tương và Trần Diễm Uyên, 2000.Sử dụng thuốc và biện dược thú y. Nhà xuất bản Nông Nghiệp, 314 trang. 
Panawala, P. V. S, T. G. Wijewardana, P. Abeynayake , 2005.Antibiotic Susceptibility of Vibrio  spp.  Isolated  from  Diseased  Shrimp,  Pond water  and  Water  sources  in  Sri Lanka: A Preliminary Study. Track 2_2. 
Quang Trong Phat, 2013. Identification and antibiotic sensitivity of vibrio bacteria isolated from  shrimp  with  acute  hepatopancreatic  necrosis  syndrome.  A  thesis  submitted  in partial fulfillment of the requirements for the degree  of Bachelor of science in 
Aquaculture. 
Sarter,  S., Nguyen,  H. N.  K., Hung,  L. T.,  Lazard,  J. and  Montet, D.  2007. Antibiotic resistance in Gram-negative bacteria isolated from farmed catfish. Food Control, 18: 1391–1396. 
Từ Thanh Dung, 2005. Bài giảng bệnh học thủy sản. Khoa thủy sản. Đại học Cần Thơ. 162 trang. 
Từ Thanh Dung, 2008. Bài giảng bệnh vi khuẩn trên động vật thủy sản. Khoa Thủy Sản. Trường Đại học Cần Thơ. 127 trang.