Hổ Trợ Trực Tuyến
Hotline
  • Phone 02923.69 68 68
  • Hotline 0939 659 222
  • Email atc.aqua@gmail.com
Bệnh và Điều trị
Bệnh phổ biến trên tôm nuôi: Nguyên nhân, chuẩn đoán và phòng trị
Cập nhật ngày 19/01/2016
Ngành công nghiệp nuôi tôm trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng đang phát triển rất nhanh chóng. Cùng với việc mở rộng qui mô sản xuất, mức độ thâm canh hoá ngày càng cao đã dẫn đến sự xuất hiện ngày càng nhiều mầm bệnh nguy hiểm đe dọa đến sự phát triển bền vững của ngành công nghiệp nuôi tôm và gây thiệt hại nghiêm trọng về mặt kinh tế. 
Mục tiêu của bài viết này là nhằm cung cấp những thông tin cơ bản nhất về tác nhân gây bệnh, chuẩn đoán nhanh thông qua hình ảnh trực quan nhằm giúp người nuôi tôm có thể xác định nhanh tình trạng nhiễm bệnh của tôm để có hướng kịp thời xử lý và một số giải pháp chung để phòng tránh các loại bệnh phổ biến nhất trên tôm hiện nay. 
1. Bệnh hoại tử gan tụy cấp tính (EMS/AHPND) 
Nguyên nhân: Tác nhân gây bệnh được xác định là do một chủng vi khuẩn Vibrio parhaemolyticus đặc biệt có độc lực cao. 
Chuẩn đoán: Tôm bệnh có khối gan tụy teo, gan tụy có màu nhợt nhạt đến trắng, ruột tôm không có thức ăn hoặc đứt đoạn, tôm thường mềm vỏ, tỷ lệ tôm chết cao. Tôm sú bệnh EMS thường có màu đậm, chậm lớn (tương tự như bệnh còi MBV) các biểu hiện trên gan tụy tương tự như trên thẻ chân trắng như màu sắc nhợt nhạt, gan tụy teo, ruột không có thức ăn. 

9390230088_7b5e935cf2_o.jpg
Tôm thẻ chân trắng có dấu hiệu nhiễm bệnh Hoại tử gan tụy (A, B). Gan tụy (HP) teo, màu nhợt nhạt; dạ dày (ST) và ruột (MG) không có thức ăn. Hình (C, D) là tôm khỏe cho thấy HP có kích thước bình thường với màu da cam hơi tối, dạ dày và ruột đầy thức ăn. Hình (B) và (D) là mẫu lấy từ hai con tôm ở hình (A) và (C) tương ứng. Nguồn: Loc Tran et al., 2013.
14615011061_96db4157ea_o.png
Tôm sú nhiễm nhiễm EMS/AHPND có màu đậm, chậm lớn, gan tụy teo (mũi tên màu đen).
 
Phòng trị bệnh: Chọn giống tốt, khỏe mạnh. Kiểm tra mật độ vi khuẩn Vibrio trong nước ao nuôi, trong đất và trên tôm giống để chắc chắn rằng mật số của Vibrio luôn ở mức an toàn. Sử dụng môi trường TCBS agar để kiểm tra Vibrio là phương pháp cực kỳ đơn giản để xác định vi khuẩn gây bệnh (khuẩn lạc xanh) so với các loài vi khuẩn khác (khuẩn lạc vàng, không nguy hiểm bằng khuẩn lạc xanh). Một cách lý tưởng, số lượng khuẩn lạc xanh nên ít hơn 10^5 CFU/ml trong tổng số khuẩn phát hiện trên đĩa. Điều đó có nghĩa nếu mật số vi khuẩn là 1 x 10^7 CFU/ml thì số lượng khuẩn lạc xanh nên ít hơn 1 x 10^2 CFU/ml. Nuôi ghép với cá rô phi hoặc các loài cá khác, tạo quần thể vi sinh (tảo và vi khuẩn) có lợi trong ao để át chế nhóm vi khuẩn Vibrio phát triển (chúng sẽ cạnh tranh về dinh dưỡng, môi trường sống,...với vi khuẩn gây bệnh). Có thể nuôi luân canh, vụ chính nuôi tôm sau đó nuôi các đối tượng khác như cá kèo,... Nếu muốn nuôi tôm bền vững và lâu dài trên mảnh đất của chúng ta thì nên hạn chế tối đa sử dụng kháng sinh!  
 
2. Bệnh đốm trắng (WSD) 

Nguyên nhân: Có 3 trường hợp bệnh đốm trắng trên tôm có dấu hiệu bên ngoài rất giống nhau, nguyên nhân có thể do virus hoặc do vi khuẩn hoặc do môi trường. Đối với virus, bệnh do white spot syndrome virus (WSSV) gây ra. WSSV được phân loại thuộc giống mới Whispovirus, họ mới Nimaviridae. Đối với trường hợp vi khuẩn, nguyên nhân do vi khuẩn gây hội chứng đốm trắng (Bacterial White Spot Syndrome - BWSS), một số nghiên cứu cho rằng nó có liên quan đến một số loài vi khuẩn thuộc họ Bacillaceae. Bệnh đốm trắng do môi trường có nguyên nhân là do khi độ cứng (Ca2+ và Mg2+) của nước cao, tôm sẽ hấp thu quá nhiều Ca2+ và Mg2+ làm xuất hiện trên vỏ những đốm trắng. 
 
Chuẩn đoán: Việc làm đầu tiên khi phát hiện tôm bị bệnh đốm trắng là nhanh chóng xác định nguyên nhân để xử trí kịp thời. Xét nghiệm PCR WSSV cho kết quả nhanh chóng và chính xác, nên tiến hành ngay khi tôm có dấu hiệu đốm trắng. Nếu kết quả PCR dương tính với WSSV thì thu hoạch ngay, ngược lại có thể nuôi tiếp và tiến hành các biện pháp xử lý tùy theo trường hợp. 

Đối với tôm bệnh đốm trắng do virus: Tôm bệnh có nhiều đốm trắng kích thước từ 0,5 - 2,0 mm xuất hiện bên trong vỏ nhất là giáp vỏ đầu ngực, đốt bụng thứ 5, 6 và sau đó lan toàn thân. Tôm bệnh hoạt động kém, ăn nhiều đột ngột sau đó bỏ ăn, bơi lờ đờ ở mặt nước hay dạt vào bờ ao. Đôi khi tôm có thêm dấu hiệu đỏ thân. Khi các đốm trắng xuất hiện sau 3-10 ngày tôm chết hầu hết trong ao nuôi (100%). Kết quả xét nghiệm PCR dương tính với WSSV. 

993530.jpg
Tôm thẻ chân trắng nhiễm virus đốm trắng WSSV.

15521101119_90cc35ab60_o.jpg
Tôm thẻ chân trắng nhiễm virus đốm trắng WSSV.
217257.jpg
Tôm sú nhiễm virus đốm trắng WSSV.
Đối với tôm bệnh đốm trắng do vi khuẩn: Tôm mới nhiễm bệnh vẫn còn hoạt động ăn mồi và lột vỏ, có khi các đốm trắng mất đi sau khi tôm lột. Khi nhiễm nặng hơn, tôm lột vỏ bị chậm lại, chậm lớn và chết rải rác nhưng không có hiện tượng tôm chết hàng loạt, hầu hết tôm bị đóng rong, đen mang. Tôm bệnh có các đốm trắng mờ đục nhìn thấy trên vỏ khắp cơ thể. Các đốm trắng hình tròn, nhỏ và ít hơn đốm trắng do virus (WSSV). Soi mẫu tươi dưới kính hiển vi đốm trắng có dạng lan tỏa hình địa y với viền kiểu gờ khía tròn ở giữa rỗng, trong khi đó đốm trắng do virus có nhiều đốm đen (melanin) ở giữa. Các đốm trắng thường chỉ ở phía ngoài lớp biểu bì và tổ chức liên kết. Nhìn chung tôm có ăn chậm hơn nhưng không gây thiệt hại đáng kể (Trần Việt Tiên, 2014). Kết quả xét nghiệm PCR âm tính với WSSV.

15708435952_b3ba863916_o.png
Tôm bệnh đốm trắng do vi khuẩn (Wang et al., 2000). Soi mẫu tươi dưới kính hiển vi đốm trắng có dạng lan tỏa hình địa y với viền kiểu gờ khía tròn ở giữa rỗng. 

15707137235_fa235256c1_o.png
Tôm thẻ chân trắng bị bệnh đốm trắng do vi khuẩn.

15521009309_0960568853_o.png
Tôm bệnh đốm trắng do virus WSSV (Wang et al., 2000). Soi mẫu tươi dưới kính hiển vi đốm trắng cho thấy có viền tròn bao quanh (mũi tên to, rỗng), chính giữa có nhiều đốm đen (melanin). 

Đối với tôm bệnh đốm trắng do môi trường: Tôm có đốm trắng ở vỏ đầu ngực hoặc phần vỏ ở sống lưng nhưng vẫn khoẻ mạnh, không có tôm tấp bờ, đàn tôm vẫn hoạt động và ăn đều ở mức bình thường, chu kỳ lột xác dài hơn bình thường và tôm sinh trưởng hơi chậm thì nguyên nhân bị đốm trắng là do môi trường chứ không phải là do virus hay vi khuẩn. Kết quả xét nghiệm PCR âm tính với WSSV.

Phòng trị bệnh: Để phòng bệnh bệnh tốt cần thực hiện tốt các nguyên tắc sau: (i) Xét nghiệm, chọn tôm bố mẹ, tôm giống không nhiễm WSSV, có chất lượng tốt; (ii) Chọn mùa vụ nuôi thích hợp, tránh thả nuôi vào mùa lạnh; (iii) Nguồn nước cho vào ao nuôi không được lấy trực tiếp từ tự nhiên, phải được lắng lọc; (iv) Ngăn chặn sự xâm nhập của các tác nhân chuyên chở mầm bệnh như các loài giáp xác hoang dã như cua còng, các loài chim bằng cách làm hàng rào xung quanh ao nuôi và giăng lưới ngăn các loài chim; (vi) Quản lí và theo dõi chặt chẽ môi trường nước ao (Trần Thị Mỹ Duyên, 2013). 

3. Bệnh hoại tử cơ quan tạo máu và cơ quan lập biểu mô (IHHNV) 

Nguyên nhân: Bệnh hoại tử cơ quan tạo máu và cơ quan lập biểu mô do infectious hypodermal and hematopoietic necrosis virus (IHHNV) gây ra. IHHNV được phân loại thuộc họ Parvoviridae, thuộc giống mớiBrevidensovirus

Chuẩn đoán: Tôm thẻ chân trắng nhiễm bệnh biểu hiện chủy bị cong hoặc dị hình, các phụ bộ ở phần đầu ngực cũng có biêu hiện không bình thường, bị biến dạng, vỏ thô ráp sần sùi, râu tôm quăn queo, tăng trưởng của tôm giảm từ 10 - 30%, tôm bị còi cọc. Đối với tôm sú, khi biểu hiện bệnh tôm thường chuyển sang màu xanh, cơ bụng có màu trắng đục và tôm thường chết nhiều trong giai đoạn 10 - 20 ngày sau khi thả giống. Bệnh IHHNV làm giảm sản lượng và gây thiệt hại về kinh tế vì khi thu hoạch, tôm nhiễm bệnh thường có kích thước nhỏ, không đồng đều và dị hình. 

1417344.jpg
Tôm thẻ chân trắng bệnh IHHNV với các dấu hiệu điển hình như chủy cong quẹo, phần đuôi dị hình, biến dạng.

395456.jpg
Cận cảnh tôm thẻ chân trắng bệnh IHHNV. 

14431827327_40ea60d642_o.jpg
Tôm thẻ chân trắng có biểu hiện của bệnh IHHNV, thân tôm bị biến dạng.

14595210646_a502283144_o.jpg
Tôm thẻ chân trắng có biểu hiện của bệnh IHHNV, thân tôm bị biến dạng, dị hình.

Phòng trị bệnh: Cách phòng bệnh hiệu quả nhất vẫn là sử dụng tôm bố mẹ có chất lượng cao, sạch bệnh. Phương pháp tiệt trùng trứng và ấu trùng là một phương pháp phòng bệnh hiệu quả tại các trại sản xuất giống. Đối với các ao nuôi tôm thịt, chọn lọc và kiểm tra con giống khỏe mạnh, sạch bệnh, không nhiễm IHHNV cũng là một cách phòng bệnh (Trần Thị Mỹ Duyên, 2013). 

4. Bệnh đầu vàng (YHV) 

Nguyên nhân: Tác nhân gây bệnh là do phức hợp virus gây bệnh đầu vàng (yellow head virus - YHV) và virus gây hội chứng liên quan đến mang (gill-associated virus – GAV). Hiện nay, YHV được ghi nhận có 6 kiểu gen khác nhau. YHV và GAV được phân loại thuộc họ Roniviridae, giống Okavirus

Chuẩn đoán: Tôm nhiễm bệnh có biểu hiện vàng hoặc nâu ở mang, vàng ở phần đầu ngực, toàn thân có màu nhợt nhạt, sưng tuyến tiêu hóa làm cho đầu xuất hiện màu vàng. Bệnh gây tỷ lệ chết cao, có thể lên đến 100% sau 3 đến 5 ngày nhiễm bệnh. Kết quả PCR dương tính với YHV/GAV.

15521604758_83357ca43a_o.jpg
Tôm sú chết do nhiễm bệnh đầu vàng YHV/GAV.

15521136389_d3d1b2b00c_o.jpg
Cận cảnh phần đầu tôm sú nhiễm bệnh đầu vàng YHV/GAV.

15521157859_e2b39f2db3_o.png
Tôm thẻ chân trắng nhiễm bệnh đầu vàng YHV/GAV (bên trên) so với tôm khỏe (bên dưới).

Phòng trị bệnh: Áp dụng phương pháp phòng bệnh và ngăn ngừa sự lây lan của dịch bệnh này bằng cách chọn lọc và kiểm tra con giống sạch bệnh trước khi thả nuôi, xử lý chất lượng nguồn nước và môi trường xung quanh cho phù hợp (Trần Thị Mỹ Duyên, 2013). 

5. Bệnh phân trắng hay hội chứng phân trắng (WFD/WFS) 

Nguyên nhân: Hiện chưa xác định được chính xác nguyên nhân, có nhiều nghiên cứu chứng minh rằng tôm bệnh phân trắng do nhóm vi khuẩn Vibrio, cũng có những nghiên cứu khác cho rằng nguyên nhân do trùng hai tế bào (Gregarine) hoặc nhóm ký sinh trùng có tên Vermiform. Một vài nghiên cứu cho thấy tôm nhiễm bệnh có sự hiện diện của nhiều loại mầm bệnh khác nhau như vi khuẩn (nhóm Vibrio), ký sinh trùng (Vermiform, trùng hai tế bào -Gregarine), virus. 

Chuẩn đoán: Tôm bệnh thải ra phân trắng, thỉnh thoảng sợi phân tôm cũng có màu vàng nhạt, gan tụy teo hay mềm nhũn, tôm bệnh phân trắng thường kèm theo triệu chứng mềm vỏ hay vỏ lỏng lẻo. Một vài ngày sau khi nhiễm bệnh, tôm sẽ yếu và bơi lội lờ đờ trên mặt nước, tôm yếu dần và chết. Nên tiến hành các xét nghiệm đơn giản nhằm xác định chính xác nguyên nhân gây bệnh để có hướng xử lý thích hợp. Việc đầu tiên và đơn giản nhất là kiểm tra ký sinh trùng trong ruột tôm bằng cách cắt một đoạn ruột tôm và soi dưới kính hiển vi quang học xem có nhiễm ký sinh trùng hay không. Nếu tôm không nhiễm ký sinh trùng, tiến hành kiểm tra tổng vi khuẩn Vibrio trong môi trường ao nuôi, nếu mật số Vibrio quá cao, có thể nguyên nhân do vi khuẩn Vibrio.   
15406386052_ffd0990a1f_o.jpg
Dấu hiệu lâm sàng của WFS. (a) Sợi phân trắng nổi trên mặt nước; (b) Sợi phân trắng trên sàng ăn; (c) Tôm nhiễm bệnh ruột có màu trắng; (d) Tôm nhiễm bệnh ruột có màu vàng nâu; (e) Ảnh chụp hiển vi bên trong của sợi phân.    

15406383902_1079a7fbde_o.jpg
Mẫu nhuộm tươi của mô gan tụy tôm quan sát dưới kính hiển vi quang học. (a) Ảnh hiển vi độ phóng đại thấp cho thấy có 3 con vermiform trong tế bào ống gan tụy tôm; (b) Ảnh hiển vi độ phóng đại cao cho thấy một con vermiform có các cấu trúc giống bào tử, nhưng thực ra đó là các tế bào B bị bong tróc và tồn tại độc lập; (c) Ảnh hiển vi độ phóng đại cao của ký sinh trùng nhuộm bởi dung dịch Rose Bengal cho thấy rõ các cấu trúc bên trong màng tế bào.

15219959189_1deaaaf281_o.jpg
Mẫu mô gan tụy tôm nhuộm bằng H&E cho thấy rõ hình thái của vermiform và cấu trúc giống bào tử.

9621155966_24bdfb14b9_o.png
Trùng hai tế bào phân lập được trong ruột của tôm bệnh phân trắng.

Phòng trị bệnh: Áp dụng các biện pháp phòng bệnh tổng hợp do có nhiều tác nhân gây bệnh phân trắng. Theo khuyến cáo của các chuyên gia Thái Lan là người nuôi tôm nên giảm mật độ nuôi trong mùa nắng nóng. Điều này làm giảm hàm lượng vật chất hữu cơ ở nền đáy ao và làm giảm sự phát triển của vi khuẩn Vibrio spp. Bên cạnh đó, một số nhà nuôi tôm đã thành công trong việc kiểm soát bệnh này bằng cách sử dụng chế phẩm sinh học có chứa vi khuẩn Bacillus subtilis để hạn chế sự phát triển của nhóm vi khuẩn Vibrio spp. gây bệnh. Nuôi ghép tôm với cá rô phi cũng có tác dụng tốt trong kiểm soát nhóm vi khuẩn Vibrio phát triển trong ao nuôi. Để khống chế trùng hai tế bào, sử dụng tỏi với liều lượng 5-10 g/kg thức ăn cho hiệu quả cao. 

6. Bệnh Taura hay hội chứng Taura (TSV)

Nguyên nhân: Bệnh do taura syndrome virus (TSV) gây ra. Đầu tiên, TSV được phân loại thuộc họ Piconarviridaenhưng gần đây đã được tái phân loại vào họ Dicistroviridae

Chuẩn đoán: Tôm thẻ chân trắng nhiễm bệnh có màu đỏ nhạt, đặc biệt là phần đuôi. Ngoài ra, tôm còn có dấu hiệu khác như mềm vỏ và ruột rỗng. Hội chứng Taura gây chết với tỷ lệ cao (thường tỷ lệ gây chết từ 40% đến 90%) và lây lan nhanh. Virus Taura có thể nhiễm trên tôm sú gây ra bệnh đỏ đuôi: tôm có màu đỏ ở toàn bộ vùng đuôi quạt và các đốt thân kế tiếp ngược lên phía đầu; chân bò, chân bơi cũng có màu đỏ. 

15522211990_9932fd4575_o.jpg
Tôm thẻ chân trắng bệnh Taura.

15522211800_aa63a61848_o.png
Tôm thẻ chân trắng bệnh Taura (bên dưới) so với tôm khỏe (bên trên).

15707060615_9610221dc5_o.jpg
Tôm thẻ chân trắng bệnh Taura, có kèm theo triệu chứng của bệnh nhiễm khuẩn.
15087128634_3cfa759f81_o.jpg
Tôm sú bệnh Taura.
Tôm sú bệnh Taura.